Tổ Bịp

  • Lý Yêu Sỏa
  • 2321 chữ
  • 0
  • 2024-10-18 16:36

QUYỂN I
 BÍ TỊCH GIANG HỒ
Chương 28
Bí tịch của phái Giang Tướng

Trong dãy Đại Biệt Sơn có một ngôi chùa tên là Hương Dũng. Nhà Lăng Quang Tổ nằm ở gần đó. Ông ấy nói nhà của mình chỉ cách chùa Hương Dũng mười mấy dặm. Hơn mười năm rồi ông ấy chưa về lại nhà. Bởi vì người thân đã chết hết rồi nên có về cũng chẳng ích gì.
Ông dẫn tôi đến chùa Hương Dũng.
Chùa Hương Dũng hoàn toàn đổ nát, những gian thờ xưa cũ đã sập xuống, tượng Phật cao lớn ngả nghiêng, ngay cả lư hương cũng bị người ta xô đổ. Bên trong lư là nước mưa đã đọng lại qua nhiều năm. Cỏ mọc xuyên qua kẽ gạch trên hàng lang, phủ kín cả lối đi. Rõ ràng lâu lắm rồi nơi đây không có người lai vãng.
Lăng Quang Tổ nói ông ấy theo học sư phụ ở chùa Hương Dũng này. Trước đó ông học tướng thuật với cha mình ở nhà, đến khi cha qua đời thì ông theo sư phụ học tướng thuật trong năm năm. Sau khi sư phụ qua đời, ông đã chôn giấu di vật của sư phụ rồi mới rời khỏi Đại Biệt Sơn, một mình xông pha giang hồ.
Tôi hỏi: “Di vật của sư phụ là gì?”
Lăng Quang Tổ đưa tôi đến sau chùa và dừng lại dưới một gốc cây hoa quế có thân to bằng cái bát ăn cơm. Cây hoa quế lớn rất chậm, to cỡ này thì cũng mấy trăm năm tuổi rồi.
Lăng Quang Tổ tìm thấy một cái xẻng đã hoen gỉ, cúi người đào đất dưới gốc cây quế. Đào sâu xuống được một mét thì xuất hiện một cái hộp gỗ. Lăng Quang Tử lôi cái hộp gỗ lên và mở ra. Bên trong hộp gỗ là bốn cuốn sách mỏng, các trang giấy đã ngả màu vàng và giòn như cánh ve sầu.
Lăng Quang Tổ trịnh trọng nói: “Đây chính là di vật của sư phụ cũng là tác phẩm kinh điển của nghề chúng ta. Chỉ cần học bốn cuốn sách này, nhỏ thì có thể sống an nhàn, hưởng thụ vinh hoa phú quý, lớn thì sẽ hô mưa gọi gió, xoay chuyển càn khôn.
Tôi tiếp nhận bốn cuốn sách với lòng thành kính vô hạn. Tôi thấy tên sách lần lượt là: Anh Diệu Thiên, Quân Mã Thiên, Trát Phi Thiên, A Bảo Thiên. Bên dưới bốn cuốn này còn có một cuốn gọi là Kim Tiền Khóa.
Tôi nhẹ nhàng đặt năm cuốn sách lên bậc thềm giống như đang nâng niu một đứa trẻ mười đời độc đinh. Tôi cúi người xuống, cẩn thận lật từng trang sách. Mặc dù tôi đọc được chữ viết trên đó nhưng lại không hiểu gì. Bốn cuốn Anh Diệu Thiên, Quân Mã Thiên, Trát Phi Thiên, A Bảo Thiên được viết bằng những câu trong Luận Ngữ dài ngắn khác nhau. Ngược lại Kim Tiền Khóa được viết bằng thơ.
Lăng Quang Tổ nói: “Sư phụ thường giải nghĩa cho tao bốn cuốn đầu, còn cuốn Kim Tiền Khóa thì chưa hề dạy. Bốn cuốn đầu tiên là viết về tướng thuật, cuốn sau cùng là viết về bói toán. Mặc dù chúng đều là tác phẩm kinh điển về tướng học nhưng lộ số khác nhau. Cả đời sư phụ kiếm sống bằng nghề tướng thuật nhưng phải đến những năm cuối đời mới bắt đầu nghiên cứu về bói quẻ thế nên mới để năm cuốn sách này một chỗ.  
Nghe nói cuốn Kim Tiền Khóa là do Chu Văn Vương viết. Tao xem cũng không hiểu gì.
Tôi hỏi: “Vậy là sư phụ có thể đọc được bốn cuốn đầu tiên”
Lăng Quang Tổ nói: “Tao có thể đọc được”
Tôi chỉ vào hàng chữ đầu tiên của A Bảo Thiên và đọc: “Tham giả tất bần, quân tử dẫn vi đại giới, Phật môn diệc vi ngũ giới chi đạo, cố tố A Bảo cữu bất tại tướng, nhi tại nhất. Tôi hỏi: “Câu này nghĩa là gì thế?”
Lăng Quang Tổ nói: “Mày muốn hỏi câu cuối phải không? “
Tôi nói: “Vâng ạ”
Lăng Quang Tổ giải thích: “Câu này có nghĩa là khi chúng ta là A Bảo thì lỗi không nằm ở phía chúng ta mà là ở người bị chúng ta lừa dối. Câu này được viết bằng ám ngữ của giang hồ. Nhất dùng để chỉ kẻ bị mắc lừa.
Tôi lại hỏi: “Vì sao lại nói người lừa đảo không có lỗi mà người bị lừa mới có lỗi?”
Lăng Quang Tổ nói: “Bởi vì người bị lừa có lòng tham, họ tin đó là của rơi từ trên trời nên mới dễ bị lừa gạt. Nếu như họ không tham lam thì những kẻ lừa gạt sẽ không tìm ra chỗ sơ hở.
Tôi lại chỉ vào trang đầu tiên của Anh Diệu Thiên rồi đọc: “Bát vấn Thất, hỉ giả dục bằng tử quý, oán giả thực vi thất sầu. Thất vấn Bát, phi bát hữu sự định nhiên tử tức gian nan…” Tôi hỏi: “Câu này nghĩa là gì thế?”
Lăng Quang Tổ nói: “Đây cũng là ám ngữ của giới giang hồ. Cả bốn cuốn sách này đều viết bằng ám ngữ của giang hồ. Người nào chưa gia nhập giang hồ có đọc cũng không hiểu nó nói gì, còn đã có bang phái, biết ám ngữ thì mới hiểu được.
Tôi rất kinh ngạc. Những cuốn sách tôi học ở trường tư thục đều là Tứ Thư Ngũ Kinh. Dù tôi không thích những cuốn sách này nhưng cố đọc thì cũng hiểu được. Trước nay tôi chưa từng nghĩ trên đời này lại có cuốn sách viết bằng ám ngữ giang hồ, hơn nữa sách tôi thấy đây không phải một cuốn mà tới bốn cuốn.
Tôi hỏi: “Ám ngữ giang hồ là gì?”
Lăng Quang Tổ nói: “Giang hồ chia thành nhiều môn phái. Mỗi một môn phái đều có ám ngữ của riêng mình. Những người này khi gặp nhau chỉ cần nói vài câu ám ngữ thì biết ngay đó là người nhà mình chứ không phải người của bang phái khác. Người ngoài có nghe cũng không hiểu họ đang nói cái gì.
Tôi không biết giang hồ lại có lắm môn phái như vậy, cũng không biết tướng thuật cũng là một môn phái độc lập trong giang hồ. Hồi nhỏ nhìn mấy ông thầy bói mù cứ tưởng là họ rất là khổ sở, chỉ kiếm tiền cầm hơi qua ngày nên rất thương hại họ. Tôi nào có ngờ bọn họ lại là người của giang hồ, đứng phía sau là cả một bang phái lớn mạnh.
Tôi hỏi: “Ám ngữ của phái tướng thuật như thế nào?”
Lăng Quang Tổ nói: “Ám ngữ của giới tướng thuật giang hồ rất là phức tạp. Mày phải học từ từ, đừng có tham lam, học dồn, học ép sẽ không tiêu hóa hết được, nếu không sau này khó mà hành tẩu trong giang hồ. Không biết ám ngữ cũng không cần quá lo lắng bởi vì mày không phải là người trong bang phái, người ta cũng không làm khó mày. Đáng sợ nhất là mới biết chút da lông bên ngoài đã tùy tiện xông pha giang hồ. Đến lúc đó nhẹ thì tàn phế, nặng thì táng mạng.
Tôi hỏi: “Nói ám ngữ không chuẩn mà hậu quả đáng sợ thế à?”
Lăng Quang Tổ nói: “Đúng vậy, nếu dùng ám ngữ nửa vời sẽ khiến cho đồng môn nghi ngờ. Một khi hành tẩu giang hồ mà để người ta nghi ngờ thì kết cục sẽ không hay lắm đâu”
Tôi nói: “Con nhất định phải học được ám ngữ của phái tướng thuật”
Lăng Quang Tổ nói: “Hôm nay tao chỉ dạy mày vài từ đơn giản, mày phải nhớ cho kỹ vào”
Tôi gật đầu.
Lăng Quang Tổ đọc tuần tự từng chữ: “Cha gọi là Thiên, mẹ gọi là Địa, chồng gọi Thất, vợ gọi Bát, đàn ông gọi là Thất Lộ, phụ nữ gọi là Tinh Chi, hòa thượng, đạo sĩ  gọi là Lão Niệm.
Tôi nhẩm lại từng lời của ông ấy.
Cuối cùng thì tôi cũng đã hiểu được hai câu ở trang đầu tiên của cuốn Anh Diệu Thiên: “Bát vấn Thất nghĩa là bà vợ muốn hỏi thầy tướng số tình hình của chồng mình. Thất vấn Bát là ông chồng muốn hỏi thầy tướng số tình hình của vợ mình.
Hôm đó tôi chỉ học những từ ngữ giang hồ này. Tôi biết mình phải chuyên tâm học cho tốt. Sau này rời khỏi Lăng Quang Tổ, tự mình bôn tẩu giang hồ không thể không dùng đến những ám ngữ này. Những câu ám ngữ này vô cùng quan trọng, chỉ có nắm vững thì tôi mới hiểu được bốn cuốn sách kia, mới có chỗ đứng trong giang hồ. Những ám ngữ này chính là dấu hiệu để nhận biết người cùng bang phái. Chỉ cần biết thứ ngôn ngữ này thì tôi có thể gia nhập phái tướng thuật và sẽ không bao giờ đơn độc nữa.
Muốn là người của phái tướng thuật không phải chuyện dễ dàng. Không những phải biết chữ nghĩa mà còn phải dùng được ám ngữ, không những dùng được ám ngữ mà còn phải đọc được sách tướng thuật.
Nhưng vì sao bốn cuốn sách này lại phải viết bằng ám ngữ của giới tướng thuật? Tôi nghĩ giang hồ đều có những tuyệt kỹ độc môn không thể tiết lộ. Thiếu Lâm có Dịch Cân Kinh, Võ Đang có Hỗn Thiên Chưởng, còn bốn cuốn này chính là tuyệt kỹ độc môn của chúng tôi. Người khác khó mà có được cũng không dễ mà học được.
Học ám ngữ giang hồ là con đường duy nhất để đến với tướng thuật.
Chúng tôi bắt đầu sửa sang lại chùa Hương Dũng, dọn sạch cỏ dại ở các hành lang, dựng tượng Phật cho ngay ngắn và quét dọn phòng ốc. Lăng Quang Tổ nói chùa Hương Dũng là nơi sư phụ ông ấy đã sống cả đời, cũng là nơi phát tích của môn phái.
Tôi cứ tưởng Lăng Quang Tổ sẽ dẫn tôi rời xa chùa Hương Dũng, sống lang bạt giang hồ, nổi trôi vô định giống như Cao Thụ Lâm đã làm. Tôi cho đó mới là hành tẩu giang hồ nhưng không ngờ Lăng Quang Tổ lại cắm rễ ở đây, dựa vào cái ngôi chùa đổ nát có tên là Hương Dũng này để nương thân, bắt đầu con đường lừa đảo của chúng tôi.
Đã theo Cao Thụ Lâm rong ruổi giang hồ lâu như vậy nên tôi thích tự do thoải mái, không ở yên một chỗ được nhất là ở một ngôi chùa xa xôi cách biệt với thế giới bên ngoài như thế này. Tôi hỏi: “Chúng ta không ra ngoài núi à? Cứ ở đây cả đời sao?” 
Lăng Quang Tổ nói: “Bên ngoài rất hỗn loạn, đánh nhau khắp nơi, cứ ở trong núi cho an toàn. Khi nào chúng ta kiếm được một món tiền lớn, tự nhiên sẽ ra thành phố sinh sống.
Tôi hỏi: “Đây chỉ là chùa miếu, chúng ta lại không phải hòa thượng, sao mà sống được”
Lăng Quang Tổ nói: “Cái này có gì khó?” Cứ cạo hết tóc, khoác cái áo cà sa vào là mình thành hòa thượng ngay. Người ta chỉ thấy mày giống hòa thượng chứ ai biết trong bụng mày có thịt chó đâu” 
Lăng Quang Tổ lại nói: “Tao chỉ cần ba năm là có thể kiếm được đống tiền. Ba năm sau chúng ta sẽ xuống núi.
Đêm đó chúng tôi nghỉ trong chùa. Dù đã qua mùa xuân nhưng trời vẫn còn rất lạnh. Ban đêm gió thổi ào ào, ánh trăng lạnh lẽo xuyên qua mái điện thờ dột nát chiếu lên những mảng tường loang lổ. Trong gió còn truyền đến những tiếng kêu trầm đục, đáng sợ của những con thú không biết tên. Trong chùa có giường nhưng lại không có chăn mền. Hơn nữa thôn làng gần nhất cũng cách cả mười mấy dặm, chúng tôi không thể nào đến xin ở nhờ. Tối hôm đó chúng tôi đốt một đống lửa, ngồi chờ trời sáng.
Khi trời sáng, Lăng Quang Tổ nói ông ấy phải đi ra ngoài nhưng không cho biết là đi đâu.
Ông ấy cũng dạy tôi vài câu ám ngữ. Ông đọc: Mắt gọi là Chiêu Tử, tướng mạo gọi là Cá Đầu, giàu gọi là Hỏa, nghèo túng gọi là Thủy. Lừa cho đối phương lộ ra tài sản gọi là Anh Diệu, dùng lời lẽ gạt người gọi là Quân Mã, đi lễ bái gọi là Trát Phi, dùng hành động để lừa bịp gọi là A Bảo.
Những ám ngữ ngày hôm nay rất dễ học, vì nội dung của nó chính là tên của bốn cuốn sách.
Tôi hỏi: “Khi nào sư phụ trở lại?”
Lăng Quang Tổ nói: “Ít thì hai ngày, nhiều thì ba ngày”
Sau khi ông ấy rời đi, tôi quanh quẩn một mình trong chùa.
Tôi đã bôn ba giang hồ nhiều năm, sống đơn độc một mình vốn là chuyện thường nhưng ở cái ngôi chùa đổ nát, xa làng xa xóm lại nằm sâu trong dãy Đại Biệt Sơn thưa dấu chân người này thì cũng hơi ớn. Đêm qua tôi đã nghe thấy tiếng kêu của dã thú trên đỉnh núi. Tôi đi đi lại lại trong chùa cuối cùng quyết định xuống núi tìm nhà ở tạm.

(Tổng: 2321 chữ)
Vui lòng Đăng nhập để bình luận