Tổ Bịp
- Lý Yêu Sỏa
- 2205 chữ
- 0
- 2024-10-18 16:36
QUYỂN II
THIÊN HẠ ĐỆ NHẤT BANG
Chương 103
Nửa đêm gặp đồng nghiệp
Tôi nói: “Còn đám Lạt ma giữ chùa cũng không cần bận tâm. Tôi có thể trộm ngay trước mũi bọn họ, riêng mấy cái khóa đồng thì tôi chịu thua”
Lão Đồng nói: “Tôi có thể dạy cậu cách mở khóa. Ổ khóa nào cũng do con người chế tạo, phàm đã là đồ do con người chế tạo, đều có cách phá giải hết”
Lão Đồng nói xong thì nhờ tôi dìu tới song sắt buồng giam. Một tay ông ấy đỡ ổ khóa, tay còn lại làm động tác hướng dẫn cho tôi. Ông nói: “Ổ khóa giống như một pháo đài. Mắt xích yếu nhất chính là cổng pháo đài. Muốn tấn công pháo đài, cần tập trung binh lực đánh vào cổng. Muốn mở được ổ khóa, chỉ có thể bắt đầu từ lỗ khóa. Các loại ổ khóa thông thường đều có lỗ tra chìa khóa”
Tôi nói: “Vẫn có câu chìa nào mở khóa đó. Ổ khóa thiên biến vạn hóa, đủ kiểu đủ loại, làm sao có thể mở được?”
Lão Đồng nói: “Cũng chưa hẳn vậy. Có loại ổ khóa không có chìa khóa, chẳng hạn như ổ khóa ở chùa Xích Phong”
Lão Đồng nói tiếp: “Địa thất chùa Xích Phong có ba lớp cửa, mỗi cửa dùng một loại khóa khác nhau. Cửa thứ nhất dùng khóa không chìa, cửa thứ hai dùng khóa ẩn, cửa thứ ba dùng khóa mật mã. Ngoại trừ trụ trì của chùa, chỉ có tôi mới biết bí mật của ba loại khóa này”
Tôi rất hiếu kỳ. Rốt cuộc lão Đồng này làm nghề gì, vì sao ông ấy biết những bí mật của chùa. Địa thất của chùa khẳng định là người ngoài không thể vào được, càng không thể biết bí mật của khóa cửa. Tôi rất muốn hỏi ông ấy nhưng nghĩ kỹ lại tôi cảm thấy lão Đồng quá là bí hiểm. Ông ấy luôn miệng chửi bới người công môn, hiển nhiên không phải người công môn. Ông ấy chẳng biết nói ám ngữ, hiển nhiên không phải người giang hồ.
Không phải người công môn, cũng không phải người giang hồ vậy là bách tính bình dân rồi. Nhưng người bình thường làm sao biết cách mở khóa, làm sao biết nhiều chuyện trên thảo nguyên đến thế.
Lão Đồng nói tiếp: “Sau khi cậu vào trong chùa thì đến hậu điện. Hậu điện thờ phụng một bức tượng Đại Hắc Thiên. Bên dưới bệ thờ có một tấm gỗ, lật tấm gỗ lên là có thể xuống dưới địa thất”
Tôi hỏi: “Đại Hắc Thiên là tượng gì?”
Lão Đồng nói: “Đại Hắc Thiên là hóa thân của thần Thấp Bà, có ba đầu sáu tay, mặt mũi nanh ác. Đó là thần hộ pháp trong Phật giáo, cũng là thần y của Bà La Môn giáo”
Tôi gật gù ra chiều đã hiểu.
*Thần Thấp Bà: Tức thần Shiva
Lão Đồng nói tiếp: “Cửa thứ nhất dùng loại khóa không chìa. Ổ khóa này không có chìa, cũng không cần chìa để mở. Muốn mở nó ra, chỉ có một cách, đó là dùng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa của bàn tay phải giữ chặt vỏ khóa. Dùng ba ngón tay tương tự ở bàn tay trái giữ chặt càng khóa. Nhẹ nhàng ấn càng khóa và vỏ khóa lại với nhau, rồi lại nhẹ nhàng kéo ra. Chỉ cần nắm rõ điểm tựa và điểm tập trung lực là có thể dùng xảo kình mở được nó…”
Lão Đồng còn đang giảng giải cách mở khóa, đột nhiên ngoài sân có tiếng quát tháo. Một đạo hắc ảnh vụt qua phía ngoài song sắt nhanh như điện xẹt. Tiếp đó là hai tiếng súng nổ và tiếng chân người rượt đuổi nặng nề. Người nổ súng là đám cai ngục, chỉ nghe tiếng bước chân cũng biết chúng nó không cách nào đuổi kịp người phía trước.
Người đó là ai? Liệu có phải là một trong những người tôi đã gặp vào đêm hôm qua? Hay chỉ là một kẻ vượt ngục bị giam giữ ở đây? Người này thân thủ bất phàm, rõ ràng là người giang hồ.
Hai tiếng súng nổ đã gây náo loạn nhà lao. Tôi nghe thấy tiếng người ồn ào ở khắp các buồng giam. Tiếng la hét, tiếng nói chuyện, tiếng hỏi han…hòa vào làm một. Có mấy ngọn đuốc đang tiến vào trong nhà lao. Một đám cai ngục vung vẩy cây đao trong tay, hung hãn nạt nộ: “Câm mồm, câm mồm”
Mãi một lúc lâu sau, bên ngoài buồng giam mới yên tĩnh trở lại, đám cai ngục cũng đã rời đi.
Lão Đồng quay trở lại chủ đề vừa rồi, ông ấy nói: “Cửa thứ nhất là khóa không chìa, cửa thứ hai là khóa ẩn”
Tôi hỏi: “Khóa ẩn là gì?”
Lão Đồng nói: “Khóa ẩn cao cấp hơn khóa phổ thông. Lỗ khóa của nó được giấu trong cơ quan. Người nào không biết có cầm nó lên kiểm tra cũng không tìm được lỗ khóa, còn người hiểu nguyên lý bên trong sẽ mở ra dễ dàng. Trên càng ổ khóa ẩn chùa Xích Phong có khắc hình một thanh kiếm trừ tà. Chỉ cần ấn vào đốc kiếm, miếng đồng dưới đáy khóa sẽ di chuyển, để lộ lỗ tra khóa. Vậy là ổ khóa ẩn sẽ biến thành ổ khóa bình thường”
Tôi nói: “Dù có là ổ khóa phổ thông, tôi cũng không mở được”
Lão Đồng nói: “Nó giống như ổ khóa buồng giam này thôi, là loại khóa phổ thông nhất. Chỉ cần kiếm một sợi dây thép, uốn cong một đầu, nhét vào trong lỗ khóa thăm dò, vừa móc vừa kéo sẽ mở được khóa”
Lão Đồng rút dây thép dưới đế giày ra, dùng ngón tay bẻ bẻ uốn uốn, rồi nhét vào tay tôi. Tôi thấy đầu sợi dây thép cong lại như cái muỗng. Tôi nhét đầu cong đó vào ổ khóa sắt, cứ tưởng sẽ nhanh chóng mở được khóa, song tôi có móc, có kéo thế nào thì ổ khóa vẫn trơ trơ.
Lão Đồng cầm lấy sợi dây thép, cổ tay giật nhẹ, ổ khóa liền bung ra. Ông nói: “Mở khóa cần có kỹ xảo. Ngón tay phải cảm nhận được những thay đổi nhỏ ở đầu sợi dây thép. Khi đầu sợi dây đụng vào phần lò xo sẽ có chấn động nhẹ, lúc này mới kéo, ổ khóa sẽ tách ra”
Tôi nói: “Cửa đầu tiên dùng khóa không chìa, cửa thứ hai dùng khóa ẩn, cửa thứ ba dùng khóa mật mã. Khóa mật mã là khóa gì?”
Lão Đồng nói: “Khóa mật mã là một loại khóa có hình trụ tròn nằm ngang. Trên khóa có bố trí năm bánh xe quay được. Mỗi bánh xe khắc bốn chữ Hán, cả thảy là hai mươi chữ. Khi năm chữ Hán này tạo thành một câu mật mã, khóa sẽ mở ra”
Tôi hỏi: “Phải tạo thành mật mã thế nào?”
Lão Đồng nói: “Mỗi loại khóa mật mã đều có mật mã khác nhau. Thông thường là một câu thơ mà lại giống như không phải thơ. Mật mã của cái khóa này là ‘hỏa thang tự tồi chiết’”
Tôi nói: “Hỏa thang tự tồi chiết, là một câu thơ bắt nguồn từ chú Đại Bi. Điểm khác biệt là hai câu thơ được gộp làm một. Nguyên văn như sau: “Ngã nhược hướng đao sơn, đao sơn tự tồi chiết. Ngã nhược hướng hỏa thang, hỏa thang tự khô kiệt”
Lão Đồng nói: “Đúng vậy, những người chốn cửa Phật có thể đoán ra chú Đại Bi, nhưng không thể đoán được “hỏa thang tự tồi chiết”. Còn những người trần tục thì càng không biết chú Đại Bi có ý nghĩa gì. Mà này, sao cậu biết chú Đại Bi thế?”
Tôi nói: “Tôi từng làm hòa thượng”
Tôi nghĩ lão Đồng sẽ tiếp tục cật vấn chuyện tôi làm hòa thượng nhưng ông ấy không hỏi thêm, chỉ nói: “Bí mật của ba loại khóa này đều cho cậu biết hết rồi. Cậu cứ nghiền ngẫm thật kỹ, tranh thủ thời gian trộm lấy mũ đồng. Tôi sẽ giúp cậu tìm toản thạch”
Tôi gật gật đầu.
Lão Đồng lại nói: “Cậu chỉ có thể ra ngoài vào ban đêm và quay về trước khi trời sáng. Thời điểm hóng gió sáng sớm và lúc ăn cơm, cai ngục đều kiểm đếm số người”
Tôi nói: “Tôi hiểu rồi”
Sau khi trời sáng, trong sân lại vang lên tiếng quát tháo của cai ngục. Tôi nói: “Tối nay tôi sẽ ra ngoài, thăm dò địa hình trước”
Lão Đồng nói: “Tối nay tôi sẽ mở khóa, thả cậu ra”
Hằng ngày, nhà lao cho tù nhân hóng gió một lần và ăn hai bữa cơm. Vào giờ hóng gió, tất cả mọi người ra ngoài sân hít thở không khí. Đến giờ ăn cơm, cháo nấu từ gạo mốc được đưa vào qua song cửa. Chúng tôi cứ thế ăn uống trong buồng giam đầy mùi phân và nước tiểu.
Cuối cùng cũng đợi được đến đêm. Lão Đồng mở khóa buồng giam, tôi đi ra ngoài sân nhà lao.
Có một cây đại thụ nằm gần bức tường nhà lao. Tôi trèo tót lên cây, thấy trong sân không có động tĩnh gì mới leo dọc theo cành cây lên mái nhà. Tôi tưởng trượt xuống dưới mái nhà sẽ ra đến bên ngoài nhưng không ngờ phía dưới lại là khu nhà của đám cai ngục. Tôi thấy đám cai ngục qua lại tới lui liên tục thì nép mình sát mái nhà, không dám phát ra tiếng động.
Tôi không biết mình đã phải đợi trong bao lâu nữa. Khi khu nhà đám cai ngục chìm vào tĩnh lặng, mặt trăng ló khuôn mặt nhợt nhạt ra khỏi những đám mây, tôi mới bám vào thanh xà nhô ra khỏi mái hiên, treo mình lơ lửng trên không và nhẹ nhàng nhảy xuống sân.
Khu nhà này có cổng ra vào nhưng đêm đó cổng không đóng, có thể bọn chúng không ngờ sẽ có người trốn ra ngoài qua đường này.
Tôi mở cổng bước ra bên ngoài, nhìn ánh trăng trải khắp mặt đất, cảm giác như muốn bay bổng, hơi thở của tự do mới thơm mát làm sao.
Bên ngoài nhà lao là thảo nguyên. Dưới ánh trăng, những ngọn cỏ rập rờn như đợt sóng cuộn nơi biển lớn. Tôi thỏa sức lăn mình thật xa trên đồng cỏ, khiến một con vật không biết tên phải giật mình hoảng hốt. Nó rít lên một tiếng chói tai rồi bỏ chạy về nơi thật xa”
Đúng là không có gì quý hơn tự do.
Sau khi lăn lộn đến mệt nhoài, tôi bò dậy thở hổn hển, đi thơ thẩn không mục đích. Chùa Xích Phong ở đâu, tôi cũng quên hỏi lão Đồng. Dù sao tối nay tôi cũng không nhất định phải đến chùa, trước tiên cứ đi tung tẩy khắp nơi đã.
Đi được khoảng mười dặm, tôi trông thấy một căn lều Mông Cổ. Bên trong lều im ắng, bên ngoài có một chuồng ngựa. Tôi chui vào trong chuồng ngựa, nghe thấy tiếng ngựa khịt mũi. Ngựa được cho ăn trong chuồng này. Mấy đêm liền nghe lão Đồng kể chuyện làm tôi buồn ngủ rã rời, đêm nay cứ tạm đánh một giấc ở đây.
Tôi quờ quạng mò tìm một đống cỏ, phủ lên trên người và nằm xuống ngủ thiếp đi.
Đang thiu thiu ngủ, tôi chợt nghe thấy tiếng bước chân sột soạt trong chuồng ngựa, có khi nào chủ nhân đến chuồng thêm cỏ cho ngựa. Tôi chợt tỉnh cả ngủ, rón rén ngồi dậy. Nhưng vì bên dưới là cỏ khô nên vẫn phát ra tiếng động.
Tiếng bước chân đột ngột dừng lại, bên trong chuồng chìm trong bầu không khí tĩnh lặng chết chóc. Thỉnh thoảng có tiếng ngựa khụt khịt. Tôi biết đối phương đang ở trong chuồng ngựa tối tăm này và hắn cũng biết tôi đang ở đây. Cả hai đều đang thăm dò đối phương, không ai dám di chuyển, cũng không dám phát ra tiếng động.
Thời gian như ngừng trôi, không khí căng thẳng đến mức chỉ cần một ngọn diêm cũng có thể bùng cháy.
Sau đó, đối phương không nhẫn nại được nữa. Tôi thấy hắn ta nhẹ nhàng bước ra phía cửa. Tôi đoán hắn ta không phải chủ nhà. Nếu hắn ta là chủ nhà đã kêu ầm lên rồi. Có thể hắn ta là một tên trộm ngựa.
Tôi cất tiếng dò hỏi: “Phải ngật cách niệm đó không?”
Đối phương thở phào một hơi, đáp: “Thì ra là bài cầm”
Tôi hỏi hắn ta có phải người giang hồ không, hắn ta trả lời thì ra là huynh đệ giang hồ với nhau.