Tổ Bịp

  • Lý Yêu Sỏa
  • 2060 chữ
  • 0
  • 2024-10-18 16:36

QUYỂN II
THIÊN HẠ ĐỆ NHẤT BANG
Chương 112
Mũ đồng về tay

Sau khi vượt sông, nhờ cưỡi ngựa chúng tôi đã nhanh chóng đến bên ngoài chùa Xích Phong.
Chúng tôi sợ kinh động đến hai con chó chăn cừu Mông Cổ, nên khi đến dưới sườn núi thì xuống ngựa, giao chúng cho Đào Lệ và Nguyên Mộc trông giữ, còn tôi và Yến Tử lặng lẽ đi lên sườn núi.
Chúng tôi nằm áp tai xuống đất thám thính thì nghe được những tiếng thùm thụp đều đặn, không phải là tiếng vó ngựa hay tiếng chân người mà là tiếng đào bới. Chúng tôi đi đường vòng tới bên một gốc cây đại thụ bên ngoài chùa, nhẹ nhàng leo lên cây. Ngồi trên này có thể quan sát toàn bộ tình hình trong ngoài chùa và trên sườn núi.
Bên ngoài chùa là cỏ dại cao đến tận đầu gối nhưng trong bụi cỏ có năm người đang bò. Dưới chân tường có một cái lỗ đen ngòm, giống như một cái miệng đang há to. Một lúc sau, có một người chui ra khỏi lỗ, kéo theo sau một cái sọt tre. Trong số những người đang bò, có hai người đứng lên, nâng sọt, đổ đất bên trong sọt vào đám cỏ dại từng chút một.
Như tôi đã từng nói, giang hồ có một câu khẩu quyết: Đại lộ trào lưỡng biên, cá tẩu nhất điều tuyến. Có hai loại kẻ trộm, một loại là toàn thiên tặc, một loại là nhập địa ngục. Toàn thiên tặc chuyên leo tường, nhập địa ngục chuyên khoét vách Đây là nhóm nhập địa ngục, nhưng không biết bọn chúng là bang Ký Bắc hay bang Thảo Nguyên.
Chúng tôi đợi ở trên cây rất lâu nhưng đám trộm này vẫn không có ý định rời đi. Lúc chập tối, tôi ăn quá nhiều bì sữa đến giờ bắt đầu thấy mắc tiểu. Bì sữa được làm từ sữa tươi, là tinh chất của sữa tươi. Người ta làm bì sữa như sau: Đun sôi sữa tươi và khuấy liên tục, tinh dầu béo sẽ nổi lên bề mặt. Sau khi để nguội một ngày, lớp váng sữa đông đặc trên bề mặt chính là bì sữa. Thảo nguyên có quá nhiều sữa tươi, ăn không hết, uống cũng không hết, nên người ta đã phát minh ra phương pháp chế biến bì sữa này. Người thảo nguyên nói chung chỉ ăn bì sữa. Nghĩ lại mới thấy thật là xa xỉ.
Tôi nhìn đám nhập địa ngục, chỉ mong chúng nó rời đi càng sớm càng tốt. Yến Tử bỗng thấp giọng nói: “Anh nhìn bên trái kìa, nhìn bên trái kìa”
Tôi nhìn qua bên trái, thấy có mấy bóng đen đang lợi dụng bụi cỏ dại che chắn lặng lẽ tiếp cận đám nhập địa ngục. Đám nhập địa ngục không hề hay biết, vẫn miệt mài chuyển đất như những con kiến thợ.
Mắt thấy một trận chiến sắp nổ ra, tôi chợt hết mắc tiểu. Mấy bóng đen đến một nơi cách đám nhập địa ngục chừng hai, ba mươi mét thì dừng lại, lấy nỏ từ sau lưng ra, đồng loạt bắn tên. Mấy con kiến thợ chăm chỉ liền gục xuống, không kịp kêu lấy một tiếng.
Tôi nhìn Yến Tử, khuôn mặt cô ấy loang lổ vệt sáng. Ánh trăng chiếu vào khuôn mặt của cô ấy qua những kẽ lá, tôi không nhìn ra biểu cảm của cô ấy.
Tôi hỏi: “Đám người này là ai?”
Yến Tử nói: “Bọn chúng giỏi dùng cung nỏ như thế, chắc là bang Thảo Nguyên. Còn đám đào đường hầm có thể là bang Ký Bắc”
Sau khi bắn chết mấy người bên ngoài, hai người của bang Thảo Nguyên chui vào đường hầm. Không lâu sau, bọn chúng bò ra ngoài, những con kiến thợ trong đường hầm đã được dọn dẹp sạch sẽ.
Bọn chúng đi men theo bức tường cao lớn, sau khi qua hai khúc quanh thì đến trước cổng chùa. Bọn chúng rút dao từ thắt lưng ra, dưới ánh trăng, lưỡi dao sáng lấp loáng. Bọn chúng lách lưỡi dao vào giữa khe cửa.
Bang Ký Bắc vẫn chưa đào xong đường hầm, nếu không, bọn chúng đã không đến trước cổng chùa để cậy then cài.
Trong màn đêm tĩnh lặng, tôi nghe có tiếng lạch cạch. Đó là tiếng then cài va chạm với khung cửa. Bọn chúng đang kéo then ra. Sau đó tôi nghe thấy tiếng mở cổng nặng nề. Tiếp đó là tiếng gầm gừ trầm thấp của hai con chó chăn cừu Mông Cổ.
Hai con chó nhảy ra từ trong bóng tối như hai con mãnh thú lao xồng xộc về phía cổng chùa. Tuy nhiên, đám người này dường như đã chuẩn bị từ trước. Bọn chúng liền quăng ra hai tấm lưới đánh cá. Hai con chó liền bị mắc vào trong lưới. Trong lúc hai chó còn đang vùng vẫy, gào thét điên cuồng thì bọn chúng cầm gậy nện như mưa lên tấm lưới.
Bang Thảo Nguyên quả là chuyên nghiệp. Dùng lưới đánh cá mềm mại đối phó với hai con chó hung hãn. Đây mới thực là cao chiêu. Tôi không thể nào nghĩ ra cách này.
Yến Tử nói: “Vào chùa mau”. Sau đó, cô ấy trượt xuống dưới cây đại thụ, tôi cũng trượt xuống theo. Chúng tôi rút nhuyễn can ra khỏi người, giũ cho dài ra và móc lên đầu tường, sau đó đạp chân lên bờ tường để leo lên, rồi nhảy vào trong chùa.
Sau khi chúng tôi vào đến bên trong chùa, tiếng chó sủa, tiếng người chửi bới, đánh nhau vẫn còn tiếp tục. Các gian phòng trong chùa đều đã sáng đèn, một số hòa thượng cầm đao thương, côn bổng chạy ra ngoài. Tôi và Yến Tử nép mình sát góc tường, rồi chạy ra hậu điện. Mọi người đều đổ dồn ánh mắt về phía cổng chùa, không một ai phát hiện ra chúng tôi.
Cửa hậu điện không khóa, chúng tôi đẩy cánh cửa gỗ chạm khắc hoa văn nặng nề ra. Ánh trăng từ ngoài cửa chiếu lên bức tượng phật đại hắc thiên ở chính giữa điện. Bức tượng có ba đầu sáu tay, dáng vẻ uy nghi. Trước tượng phật có điện thờ, phía dưới điện có tấm ván gỗ. Chúng tôi lật tấm ván lên, nhảy xuống dưới.
Đây chính là gian địa thất cất giấu mũ đồng.
Chúng tôi không biết thông đạo dẫn xuống địa thất dài bao nhiêu và có nguy hiểm gì không. Tôi đi trước Yến Tử. Nếu có nguy hiểm, tôi có thể cản lại. Yến Tử ôm tôi từ phía sau và hôn lên cổ tôi.
Trong lòng tôi thấy ấm áp vô cùng, không còn thấy sợ gì nữa.
Bước xuống bậc thang chừng mười mấy mét, tiếng ồn ào bên ngoài cũng im ắng. Bao trùm chung quanh là bầu không khí tĩnh lặng, chúng tôi chỉ nghe thấy hơi thở của chính mình.
Tôi hỏi Yến Tử: “Em sợ không?”
Yến Tử không trả lời, nhưng tôi cảm giác được cánh tay nhỏ bé của cô ấy đang khẽ run lên trong lòng bàn tay tôi.
Tôi nói: “Đừng sợ, anh có chết cũng không để em bị thương”
Yến Tử nói: “Đừng nói bậy. Anh nhất định phải sống, chúng ta đều sẽ sống. Em không thể thiếu anh được”
Tôi nghe trái tim mình đập rộn ràng, ôm Yến Tử vào lòng. Yến Tử ngả đầu vào vai tôi. Tôi đắm chìm trong niềm hạnh phúc lớn lao. Căn địa thất tối tăm, ẩm thấp này còn rực rỡ, huy hoàng hơn cả một cung điện nguy nga, tráng lệ.
Chúng tôi dùng ngón chân thăm dò bậc thềm, cẩn thận từng bước một. Đột nhiên phía trước có một cánh cửa gỗ chặn đường. Tôi đưa tay mò mẫm, tìm thấy một ổ khóa hình vuông. Tôi dùng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa bàn tay phải giữ chặt vỏ khóa, ba ngón tương tự bàn tay trái giữ chặt càng khóa, chầm chậm tìm điểm tập trung lực, sau đó vừa đẩy vừa kéo, nghe cạch một tiếng, càng khóa và ổ khóa liền tách rời.
Cánh cửa đầu tiên đã được mở, chúng tôi tiếp tục dò dẫm tiến về phía trước. Yến Tử nói: “Ban ngày các hòa thượng phải xuống dưới địa thất, qua lớp cửa thứ nhất, chắc chắn sẽ rất tối, thử kiểm tra xem trên tường có đèn dầu không?”
Chúng tôi mỗi người đi một bên, vừa bước xuống thang vừa mò mẫm vách tường. Nếu có đèn dầu thì vách tường sẽ có hốc để đặt đèn vào, hơn nữa sẽ nằm ở vị trí cao hơn thân người. Dân gian có câu ‘Đèn cao ánh sáng thấp’. Đèn dầu chắc chắn sẽ không thể treo trên đỉnh đầu vì sẽ không thể soi tới bậc thang dưới chân. Dân gian gọi đó là ‘Vùng tối dưới chân đèn’.
Quả nhiên, tôi tìm thấy một cái hốc trên vách tường, bên trong có diêm và đèn dầu. Thời bấy giờ, đèn dầu thắp bằng dầu ăn, mấy chục năm sau mới có nhà máy lọc dầu, sản xuất xăng và dầu ma dút từ dầu thô, phần cặn còn lại có thể đốt cháy và được gọi là dầu hỏa. 
Ổ khóa ở cánh cửa thứ hai quả nhiên là loại khóa ẩn. Bên trên khóa có hình một cây đoản kiếm trừ tà, ấn vào chuôi kiếm, miếng đồng bên dưới đáy ổ khóa sẽ di chuyển, để lộ ra lỗ tra chìa khóa. Tôi lấy sợi dây thép đã chuẩn bị sẵn nhét vào ổ khóa, móc móc, kéo kéo, ổ khóa liền bung ra. Có thể ổ khóa này có cấu tạo đơn giản, hoặc cũng có thể kỹ thuật mở khóa của tôi đã tiến bộ. Tôi thấy ổ khóa ẩn này còn dễ mở hơn ổ khóa buồng giam rất nhiều.
Cánh cửa thứ ba quả nhiên dùng loại ổ khóa mật mã, chỉ cần di chuyển năm chữ trên ổ khóa để kết hợp thành hàng chữ “hỏa thang tự tồi chiết”, sau đó kéo ra là mở được khóa.
Chúng tôi bước qua cánh cửa thứ ba vào trong mật thất. Dưới nền mật thất có một bức tượng, đây có thể là trụ trì tiền nhiệm của chùa. Bức tượng rỗng ở bên trong. Tôi thò tay vào mò mẫm và tìm được một vật bằng kim loại, lấy ra xem thử, quả nhiên là một cái mũ đồng.
Mọi thứ đều đúng như lời lão Đồng nói. Xem ra, có thể lão ta từng làm hòa thượng ở chùa này, cũng có thể là một trong số những người đã đặt mũ đồng vào trong mật thất.
Lấy được mũ đồng rồi, chúng tôi cực kỳ vui sướng, bước từng bước lên bậc thang, định quay trở lại mặt đất. Đột nhiên phía trước truyền đến tiếng người trò chuyện, còn có ánh đuốc lọt qua tấm ván. Tôi kéo Yến Tử ra sau lưng, tay giữ chặt mũ đồng. Nếu ai đó mở tấm ván bước vào trong này, tôi sẽ dùng mũ đồng đánh gục hắn ta.
Bọn họ đi một vòng quanh hậu điện, nói mọi thứ vẫn bình thường, sau đó rời đi. Bọn họn có thể là hòa thượng đi tuần tra. Thế thì, bang Thảo Nguyên đâu rồi?  Chỉ dựa vào mấy hòa thượng này, khẳng định không phải là đối thủ của bang Thảo Nguyên. 
Có lẽ bang Thảo Nguyên thấy bị phát hiện nên rút lui rồi. Dù sao trộm vẫn là trộm, không phải cường đạo, sẽ không cướp đoạt trắng trợn.
Sau khi hòa thượng rời đi, chúng tôi nhẹ nhàng mở tấm ván, trở lại mặt đất. Ánh trăng chiếu xuyên qua cửa sổ áp mái xuống dưới nền hậu điện khiến tôi cảm thấy được sống là một điều tuyệt vời biết bao. 
Sau đó, chúng tôi tung nhuyễn can, leo lên đầu tường và nhảy ra ngoài chùa.

(Tổng: 2060 chữ)
Vui lòng Đăng nhập để bình luận